Theodore Cantor

Theodore Edward (Theodor Edvard) Cantor (1809–1860) là một bác sĩ, nhà động vật học và nhà thực vật học người Đan Mạch.[1]Sinh ra trong một gia đình Do Thái ở Đan Mạch,[2] mẹ ông là chị gái của Nathaniel Wallich. Cantor làm việc cho Công ty Đông Ấn của Anh, và tiến hành bộ sưu tập lịch sử tự nhiên ở PenangMalacca.[3]Cantor là nhà khoa học phương Tây đầu tiên mô tả cá Xiêm.[4][5][6][7] Trong lĩnh vực khoa học về bò sát-lưỡng cư học, ông đã mô tả nhiều loài bò sátlưỡng cư mới.[8] Các loài được Cantor mô tả đầu tiên bao gồm Bungarus bungaroides (1839),[9] Bungarus lividus (1839),[10] Channa argus (1842),[11] Elaphe rufodorsata (1842),[12] Euprepiophis mandarinus (1842),[13] Hippocampus comes (1850),[14] Lycodon effraenis (1847),[15] Misgurnus anguillicaudatus (1842),[16] Naja atra (1842),[17] Oligodon albocinctus (1839),[18] Oligodon cyclurus (1839),[19] Ophiophagus hannah (1836),[20] Oreocryptophis porphyracea (1839),[21] Pareas monticola (1839),[22] Protobothrops mucrosquamatus (1839),[23] Ptyas dhumnades (1842),[24]Trimeresurus erythrurus (1839).[25]Chi Cantoria với loài Cantoria violacea được đặt tên để vinh danh Cantor,[26] ví dụ Pelochelys cantorii, thường được gọi là rùa mai mềm khổng lồ Cantor, và Trimeresurus cantori, hường được gọi là loài rắn hố phun nọc Cantor.[27]Ông là tác giả của: